This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Chủ Nhật, 31 tháng 12, 2000

Những bộ phận cơ thể mất đi, con người vẫn sống

Lá lách

Lá lách nằm ở phía bên trái của bụng, sát với xương sườn. Bao bọc xung quanh lá lách là một lớp mô mỏng như giấy nên dễ dàng bị rách khi bị va chạm, chấn thương mạnh. Máu chảy ra từ lá lách khi xảy ra chấn thương vùng bụng khi mất lớp bao bọc có thể khiến người bệnh tử vong. Lá lách có hai màu: đỏ đậm và những túi nhỏ màu trắng. Màu đỏ liên quan đến việc lưu trữ và tái tạo tế bào hồng cầu, trong khi đó, màu trắng liên quan đến việc lưu trữ các tế bào bạch cầu và tiểu cầu. Nếu lá lách bị vỡ, có thể phải cắt bỏ nhưng bạn vẫn có thể sống khi thiếu bộ phận này. Các cơ quan khác trong cơ thể sẽ đảm nhiệm hầu hết các chức năng do lách thực hiện. Điều này do gan đóng vai trò trong việc tái tạo tế bào hồng cầu và các mô bạch huyết khác trong cơ thể sẽ đảm nhiệm chức năng miễn dịch của lá lách. Tuy nhiên, vì chức năng của lá lách giúp bảo vệ chống lại nhiễm trùng nên khi mất đi lá lách, người bệnh sẽ có nguy cơ nhiễm trùng cao hơn, đặc biệt là sau khi mổ.

Dạ dày

Dạ dày thực hiện 4 chức năng chính là tiêu hóa bằng cách co bóp để nghiền nát thức ăn, tiết ra acid để phân hủy thức ăn, sau đó hấp thụ và bài tiết. Có những trường hợp phải phẫu thuật cắt bỏ dạ dày của người bệnh vì bệnh ung thư hoặc chấn thương. Bác sĩ sẽ nối trực tiếp thực quản với ruột non. Sau một thời gian phục hồi, bệnh nhân có thể ăn uống được bình thường bên cạnh việc bổ sung vitamin.

Một số bộ phận cơ thể mất đi nhưng không ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống.

Một số bộ phận cơ thể mất đi nhưng không ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống.

Cơ quan sinh sản

Cơ quan sinh sản chính ở nam giới và nữ giới là tinh hoàn và buồng trứng. Nguyên nhân cơ quan sinh sản bị loại bỏ thường do ung thư hoặc chấn thương. Việc cắt bỏ tử cung sẽ khiến phụ nữ không thể sinh con, đồng thời ngừng chu kỳ kinh nguyệt. Nhưng khi thiếu những bộ phận này, cơ thể con người vẫn sống bình thường. Trường hợp của một phụ nữ mắc Hội chứng Mayer - Rokitansky - Kuster - Hauser hiếm gặp khiến cô sinh ra đã không có âm đạo, không có kinh nguyệt nhưng vẫn có chu kỳ hormon. Nghiên cứu cho thấy phụ nữ cắt bỏ buồng trứng không bị giảm tuổi thọ và thú vị là ở một số nam giới, việc cắt bỏ tinh hoàn còn giúp họ tăng tuổi thọ.

Đại tràng

Đại tràng là nơi tiếp nhận thức ăn đã được tiêu hóa ở dạ dày và hấp thu từ ruột non chuyển đến. Nó có tác dụng hấp thu muối khoáng và nước từ thức ăn nhờ sự hỗ trợ phân hủy của các vi khuẩn tạo thành các chất thải (phân). Khi đại tràng bị cắt bỏ, bệnh nhân có thể phải mang một túi bên ngoài để chứa phân. Vì phân không thể di chuyển xuống hậu môn như bình thường, bác sĩ sẽ tạo ra một chỗ thoát, hay hậu môn nhân tạo trên thành bụng. Túi có kích thước bằng bàn tay. Hầu hết mọi người hồi phục sau phẫu thuật và quen với sự xuất hiện của hậu môn giả này.

Túi mật

Là nơi dự trữ mật do gan bài tiết ra. Khi ăn thức ăn, túi mật có chức năng co bóp để đẩy dịch mật qua đường mật vào ruột non giúp tiêu hóa thức ăn. Những nơi lắng đọng bất thường của các thành phần chính trong dịch mật sẽ hình thành nên bùn mật, sỏi mật. Sỏi mật thường gây ra đau đớn, thậm chí làm tắc nghẽn các ống mật. Khi điều này xảy ra, bác sĩ tiến hành phẫu thuật cắt túi mật. Mỗi năm, có khoảng 70.000 người thực hiện thủ tục phẫu thuật này ở Anh.

Ruột thừa

Ruột thừa là một túi mỏng hình con giun dài gắn liền với ruột già. Ruột thừa là nguồn dự trữ vi khuẩn có lợi cho tiêu hóa đặc biệt hữu ích khi cơ thể bị tiêu chảy nặng. Ruột thừa cũng giúp bù đắp lượng vi khuẩn tốt và chống lại sự tấn công của vi khuẩn xấu. Người bị viêm ruột thừa sẽ có triệu chứng đau ở quanh rốn rồi lan sang bụng phải. Đôi khi người bệnh thấy cơn đau biến mất và cảm thấy mình đã khỏe. Tuy nhiên, nó có thể báo hiệu ruột thừa bị vỡ, chất lỏng thấm vào ổ bụng sẽ gây ra nhiễm trùng và viêm phúc mạc. Trong trường hợp này, người bệnh cần được tiến hành phẫu thuật ngay lập tức để làm sạch khoang bụng nếu không sẽ nguy hiểm tính mạng.

Thận

Hầu hết mọi người đều có hai quả thận nhưng nhiều người vẫn sống sót nếu còn lại một quả, thậm chí không còn quả thận nào nhờ sự giúp đỡ của máy chạy thận nhân tạo. Thận có chức năng lọc máu để duy trì nước và cân bằng điện giải cũng như cân bằng axit - bazơ trong máu. Các chất không cần thiết sẽ được đào thải qua nước tiểu. Có nhiều lý do khiến phải cắt bỏ một bên hoặc cả hai bên quả thận như thận tổn thương nặng nề do rượu hoặc ma túy, thậm chí bị nhiễm trùng. Nếu người bệnh bị cắt bỏ cả hai quả thận, họ sẽ phải được tiến hành lọc máu. Nếu một người phải chạy thận, tuổi thọ của họ sẽ phụ thuộc vào nhiều yếu tố như loại máy chạy thận, giới tính, độ tuổi, các bệnh tật khác mà bệnh nhân đang mắc phải. Nghiên cứu gần đây cho thấy một người chạy thận lúc 20 tuổi có khả năng sống thêm 16-18 năm, trong khi đó, bệnh nhân 60 tuổi phải chạy thận chỉ có thể sống được thêm 5 năm.

Quang Thành

((Theo Iflscience, 4/2018))

Cắt lá lách có ảnh hưởng khả năng sinh con?

Phạm N.D (phucbua94nd@gmail.com)

Trong thư bạn không nói rõ bạn bị cắt lách do chấn thương dập vỡ lách hay lách to do bệnh nội khoa như bệnh Thalassemia. Những người bệnh này khi bị lách to phải cắt để phòng tránh nguy cơ chấn thương gây vỡ lách dẫn đến chảy máu ồ ạt sẽ nguy hiểm tính mạng. Dưới đây là những điều bạn nên biết về bệnh Thalassemia: 2 người bị Thalassemia không nên lập gia đình dù thể nhẹ vì người bị Thalassemia nhẹ hoặc người mang gene bệnh thường không biểu hiện triệu chứng rõ ràng. Tuy nhiên, nếu 2 người bị Thalassemia nhẹ kết hôn với nhau thì con sinh ra có 25% nguy cơ bị Thalassemia thể nặng do nhận cả 2 gene của bố và mẹ truyền cho, 50% khả năng con bị bệnh mức độ nhẹ do gene bệnh của bố hoặc của mẹ truyền cho, 25% khả năng con bình thường. Trường hợp 2 người cùng mang gene bệnh Thalassemia kết hôn với nhau, nên được tư vấn trước khi dự định có thai. Nếu cặp vợ chồng cùng mang một thể bệnh Thalassemia có thai, nên được chọc ối chẩn đoán trước sinh tại các cơ sở y tế chuyên khoa. Vì vậy, lời khuyên của chúng tôi là bạn và bạn đời nên khám tư vấn di truyền trước khi kết hôn. Nếu đã kết hôn thì khi mang thai cần chọc ối để kiểm tra xem thai nhi có mang gene bệnh không, từ đó quyết định có cần phải chấm dứt thai nghén hay không.

BS. Nguyễn Kim Dung

Đề phòng say nắng, say nóng mùa hè

Nếu bệnh nhân không được xử trí kịp thời có thể để lại các di chứng thần kinh không hồi phục và thậm chí gây tử vong.

Những nguyên nhân

Say nắng: tình trạng thân nhiệt tăng cao quá mức (thường trên 400C) xẩy ra do cơ thể bị tăng thân nhiệt sau một thời gian dài bởi cơ thể khi lao động hoặc đi quá lâu ngoài trời nắng, hoặc tắm biển, sông, ao hồ khi trời nắng gắt, nhiều tia nắng mặt trời (tia cực tím) sẽ chiếu thẳng vào vùng cổ gáy (tương ứng với vùng hành tủy của não bộ). Dưới tác dụng liên tục của ánh sáng mặt trời gay gắt, trung tâm điều hòa thân nhiệt cơ thể sẽ bị chấn động làm rối loạn điều hòa thân nhiệt cùng với hiện tượng mất nước cấp của cơ thể, trong khi cơ thể chưa thích nghi kịp và cơ thể bị mất nước, làm tổn thương hệ thống thần kinh kiểm soát thân nhiệt. Say nắng thường biểu hiện bệnh nặng ngay từ đầu, có thể có nhiều dấu hiệu thần kinh sớm, rất rõ tổn thương có thể hồi phục hoặc không hồi phục. Một số trường hợp có thể có tụ máu dưới màng cứng và trong não.

Say nóng: tình trạng mất nước toàn thể kèm theo rối loạn điều hòa thân nhiệt, rối loạn vận mạch mà bản chất là do trung tâm điều hòa thân nhiệt không thích ứng với điều kiện thời tiết xung quanh. Say nóng thường do phải làm việc trong điều kiện môi trường nhiệt độ cao nóng bức (hầm lò, trong phòng kín...), hoặc hoạt động thể lực quá sức ở người trẻ (chơi các môn thể thao cường độ cao, làm việc nặng nhọc kéo dài)... dưới trời oi bức sẽ dẫn đến hiện tượng lượng nhiệt sinh ra và lượng nhiệt hấp thu lớn hơn nhiều so với lượng nhiệt cơ thể tỏa ra môi trường xung quanh. Do đó gây nên tình trạng mất nước trầm trọng của cơ thể là chủ yếu.

Đề phòng say nắng, say nóng mùa hèĐặc điểm chung là cả say nóng và say nắng đều dẫn đến một tình trạng tăng thân nhiệt một cách  đột ngột

Biểu hiện

Các biểu hiện của say nắng tùy theo mức độ tăng thân nhiệt và thời gian ở ngoài nắng. Một đặc điểm chung là cả say nóng và say nắng đều dẫn đến một tình trạng tăng thân nhiệt một cách đột ngột trong khi đó không ra mồ hôi. Khi thân nhiệt tăng sẽ dẫn tới tăng quá trình đào thải mồ hôi làm cơ thể mất một lượng nước và chất điện giải (muối) lớn, hiện tượng này nếu không được bù kịp thời sẽ dẫn tới hậu quả giảm khối lượng tuần hoàn gây trụy tim mạch, rối loạn chất điện giải nặng có thể gây tử vong. Một yếu tố nguy cơ nữa khi nhiệt độ cơ thể tăng cao sẽ gây rối loạn hoạt động chức năng của rất nhiều cơ quan như: tim mạch, hô hấp, thần kinh...

Lời khuyên của thầy thuốcKhông làm việc quá lâu hoặc đi lại hoặc chơi thể thao trong môi trường nóng bức cũng như tránh các hoạt động thể lực quá sức. Sau mỗi một giờ làm việc ngoài trời nắng nóng hoặc trong hầm lò, nhà máy nên nghỉ giải lao khoảng 1 - 15 phút. Luôn trang bị đầy đủ thiết bị chống nắng khi lao động, đi lại, làm việc ngoài trời nắng như: quần áo bảo hộ lao động, mũ, nón, kính… (nên dùng áo cotton dài tay giúp hấp thụ mồ hôi của cơ thể trong khi vẫn giữ cơ thể được mát mẻ và nên mặc quần áo sáng màu để cơ thể hấp thụ nhiệt ít nhất). Cần mang theo đủ nước uống trước khi ra ngoài trời trong thời tiết nắng nóng để bù nước kịp thời. Với trẻ em và người cao tuổi, trong những ngày nắng nóng cần hạn chế đến mức tối đa ra nắng.

 

Vì vậy, người bị say nắng thường thấy da nóng và khô, mệt lả, đau đầu, khó ở, đỏ mặt, nôn mửa và tiêu chảy. Một số triệu chứng khác có thể xảy ra như giảm khả năng đánh giá, cử chỉ kỳ cục, ảo giác, thay đổi ý thức, lẫn lộn, mất định hướng và hôn mê, co giật.

Các biểu hiện của say nắng, say nóng có thể tùy theo mức độ tăng thân nhiệt và thời gian. Có thể từ những biểu hiện nhẹ ban đầu là tăng nhịp tim, tăng nhịp thở, hồi hộp trống ngực rồi đến trạng thái mệt mỏi, hoa mắt chóng mặt, nhức đầu, tay chân rã rời, kích thích nhẹ, khó thở tăng dần, chuột rút... và cuối cùng là ngất, hôn mê, trụy tim mạch, tử vong.

Với thể nặng, thân nhiệt tăng cao (trên 400C), nạn nhân thường mất nước nghiêm trọng, da nóng (sờ vào sẽ rất đau), khô, mệt lả, đau đầu, chóng mặt, khó chịu, đỏ mặt, nôn mửa và tiêu chảy. Một trong những dấu hiệu quan trọng nhất của sốc nhiệt là thân nhiệt đột ngột tăng cao. Đồng tử thu nhỏ lại. Nạn nhân có thể bị ngất xỉu, co giật, lú lẫn, mất định hướng, đôi khi mất ý thức, bất tỉnh hoặc đột quỵ, hôn mê.

Hậu quả

Nếu để xảy ra say nắng, say nóng sẽ rất nguy hiểm, có thể giết hoặc gây tổn thương cho tế bào thần kinh trung ương (tế bào não) và các cơ quan nội tạng khác trong cơ thể. Bởi vì, say nắng, say nóng bao giờ cũng dẫn đến một tình trạng tăng cao thân nhiệt. Khi thân nhiệt tăng cao sẽ dẫn tới tăng quá trình đào thải mồ hôi làm cơ thể mất một lượng nước lớn. Hiện tượng này sẽ dẫn tới hậu quả làm giảm khối lượng tuần hoàn gây trụy tim mạch, rối loạn chất điện giải nặng và có thể gây tử vong, nếu cấp cứu không lịp thời. Một yếu tố nguy cơ khác là khi thân nhiệt tăng cao sẽ gây rối loạn hoạt động chức năng của rất nhiều cơ quan như: tim mạch, hô hấp, thần kinh...

Xử trí

Trước mọi trường hợp bị say nắng, say nóng, cần sơ cứu ngay lập tức khi chưa có sự hỗ trợ của nhân viên y tế, đưa ngay nạn nhân vào chỗ mát, thoáng gió, cởi bỏ bớt quần áo, nhanh chóng lấy nước đổ lên đầu, vẩy nước lên người nạn nhân hoặc lấy khăn thấm nước mát phủ lên người mục đích để giảm thân nhiệt. Nếu cơ thể nóng bừng và không thể đổ mồ hôi, lúc đó có thể nạn nhân đang bị mất nước, cần làm mát cơ thể bằng uống nước mát có pha muối là tốt nhất hoặc trực tiếp đổ nước lên người. Nếu có điều kiện nên chườm mát (bằng khăn sạch nhúng nước mát) ở những vị trí có động mạch lớn đi gần ngoài da như: hai vùng nách, hai vùng bẹn, cổ nhằm nhanh chóng làm giảm thân nhiệt cho nạn nhân. Đây là việc làm vô cùng quan trọng và cần thiết. Bởi say nắng, say nóng nguyên nhân là do thân nhiệt tăng và mất nước. Lưu ý không nên dùng nước đá để hạ nhiệt, bởi vì làm như vậy nhiệt không hạ nhưng có thể làm cho tim đập nhanh, thậm chí đột qụy.

Nếu nạn nhân không uống được nước hoặc nôn liên tục, sốt tăng liên tục, kèm các triệu chứng đau bụng, đau ngực, khó thở hoặc bất tỉnh cần nhanh chóng kêu gọi mọi người hỗ trợ, gọi xe để nhanh chóng chuyển nạn nhân đến cơ sở y tế gần nhất. Trong quá trình vận chuyển vẫn thường xuyên chườm mát cho nạn nhân.

TS.BS. BÙI MAI HƯƠNG

Dị ứng hải sản, từ nhẹ đến tối cấp

Tuy vậy, dị ứng hải sản cũng chỉ xảy ra trên một số ít người nhạy cảm với loại thực phẩm này mà thôi.

Tại sao hải sản lại gây dị ứng?

Nguyên nhân gây dị ứng do hải sản có 3 loại: thứ nhất là do hải sản có chứa nhiều loại protein bổ dưỡng nhưng cũng có những protein “lạ”, khi ăn vào cơ thể sẽ là những kháng nguyên thực sự. Những kháng nguyên này sẽ kích hoạt hệ thống miễn dịch của cơ thể gây dị ứng. Thứ hai là một số protein có trong hải sản chỉ đóng vai trò là một “bán kháng nguyên - hapten” hay kháng nguyên không đầy đủ. Loại này khi vào cơ thể sẽ kết hợp với nhóm “quyết định kháng nguyên” sẵn có gây nên dị ứng. Nguyên nhân thứ ba là do một số hải sản có chứa nhiều chất histamin. Chất này khi vào cơ thể cũng gây nên các triệu chứng như dị ứng.

Như vậy, các protein trong hải sản có thể là kháng nguyên, bán kháng nguyên đối với người bị dị ứng hải sản mà lại là những protein bình thường đối với tuyệt đại đa số những người không bị dị ứng hải sản. Còn hiện tượng hải sản có nồng độ histamin cao thì có thể gây triệu chứng cho tất cả mọi người ăn phải (hiện tượng ngộ độc histamin).

Đối với dị ứng hải sản, các phản ứng dị ứng (đặc biệt là sốc phản vệ) không phụ thuộc số lượng ăn vào nhiều hay ít mà phụ thuộc vào độ mẫn cảm của từng cá thể.

Hải sản chứa nhiều protein bổ dưỡng và các histamin nên dễ gây dị ứng.

Hải sản chứa nhiều protein bổ dưỡng và các histamin nên dễ gây dị ứng.

Dị ứng hải sản: từ mẩn ngứa đến những triệu chứng tối cấp

Dị ứng hải sản biểu hiện ở nhiều mức độ khác nhau sau khi ăn hải sản. Hàng đầu là các biểu hiện ngoài da như đỏ da, mẩn ngứa, nổi mày đay. Các biểu hiện thần kinh như đau đầu, chóng mặt, ngất, hôn mê. Các tổn thương niêm mạc như phù nề niêm mạc mắt, mũi, miệng. Các triệu chứng hô hấp như hắt hơi, ngạt, chảy nước mũi, khó thở kiểu hen, co thắt thanh quản. Các biểu hiện đường tiêu hóa như đau bụng, tiêu chảy, buồn nôn, nôn mửa. Đặc biệt là triệu chứng sốc phản vệ khi có trụy tim mạch với các triệu chứng sốc như da tái lạnh, mạch nhanh nhỏ, nổi vân tím, tụt huyết áp... Các trường hợp tối cấp như co thắt thanh quản, sốc phản vệ có thể gây tử vong nhanh chóng nếu không được cấp cứu kịp thời.

Xử trí thế nào?

Xử trí dị ứng hải sản bao gồm cho các thuốc chống dị ứng như kháng histamin (clarytin), corticoid (methyprednisolon) đường uống hoặc tiêm truyền đường tĩnh mạch. Có thể cho thêm vitamin C và các thuốc chống viêm đường uống khác. Khi có sốc phản vệ xảy ra, thuốc đầu tiên được chọn là adrenalin, sử dụng đúng theo phác đồ cấp cứu như bất cứ một sốc phản vệ nào khác. Adreanin có thể khí dung, tiêm dưới da, tiêm, truyền tĩnh mạch tùy tình trạng bệnh nhân.

Dị ứng hải sản từ nhẹ là đỏ da, mẩn ngứa, nổi mày đay rồi phù nề niêm mạc mắt, mũi, miệng; nặng là triệu chứng sốc phản vệ khi có trụy tim mạch.

Dị ứng hải sản từ nhẹ là đỏ da, mẩn ngứa, nổi mày đay rồi phù nề niêm mạc mắt, mũi, miệng; nặng là triệu chứng sốc phản vệ khi có trụy tim mạch.

Lời khuyên của thầy thuốc

Nói chung, trừ trường hợp dị ứng do ăn phải loại hản sản có chứa nhiều histamin, tất cả những người đã được xác định là dị ứng với hải sản nên tránh ăn uống, tiếp xúc với những loại thực phẩm có nguồn gốc từ hải sản. Hết sức chú ý khi đi ăn nhà hàng, nên xem kỹ thực đơn, thành phần, nguồn gốc thức ăn để tránh ăn nhầm hải sản. Nên tránh xa khu vực chế biến hải sản vì khi hít phải hơi thức ăn loại này cũng có thể bị dị ứng. Thậm chí dị ứng cũng xảy ra nếu dùng chung bát đĩa… đựng hải sản của người khác. Không nên ăn các loại hải sản đã chết hoặc chế biến không đảm bảo do loại thức ăn này có thể chứa nhiều histamin do nhiễm khuẩn. Cuối cùng, một người bị dị ứng cua biển cũng rất nên thận trọng khi ăn các đồ biển khác như ghẹ, mực, tôm, sò… vì có thể bị dị ứng chéo, không kém phần nguy hiểm.

PGS.TS. Vũ Đức Định

Ái kỷ

Người bệnh chỉ quan tâm đến bản thân, tự thổi phồng bản thân, muốn người khác ngưỡng mộ và tôn trọng mình nhưng lại thiếu đồng cảm với người khác. Bệnh có thể ảnh hưởng đến cuộc sống nếu không được điều trị kịp thời.

Rối loạn nhân cách ái kỷ bao gồm hành vi kiêu ngạo, thiếu sự đồng cảm với mọi người và có nhu cầu nhận được mọi ngưỡng mộ - thể hiện rõ trong công việc và những mối quan hệ. Những người ái kỷ thường được mô tả là những người tự phụ, luôn xem mình là trung tâm, lôi cuốn và luôn đòi hỏi. Những người ái kỷ có tính cách thất thường và luôn tin rằng mình xứng đáng được đối xử đặc biệt. Những rối loạn nhân cách có liên quan gồm: chống đối xã hội, ranh giới, kịch tính. Tự kiêu là mức độ nhẹ hơn của rối loạn nhân cách ái kỷ. Tự kiêu có những biểu hiện như sự tự phụ, sự lôi cuốn, ích kỷ, thích kiểm soát, một tình yêu huyễn hoặc với bản thân trong gương.

Triệu chứng thường gặp

Bệnh ái kỷ thường xuất hiện ở nam giới nhiều hơn nữ giới và bắt đầu ở tuổi thiếu niên hoặc trưởng thành. Người bị bệnh ái kỷ thường có các triệu chứng: Phản ứng gay gắt khi nhận được những lời nhận xét hoặc cảm thấy tức giận, xấu hổ khi bị ai đó nhắc tới hoặc góp ý. Lợi dụng người khác để đạt được mục tiêu của mình. Thổi phồng tài năng và khả năng của mình. Phóng đại tầm quan trọng của bản thân. Luôn mong muốn mọi người chú ý và ngưỡng mộ mình. Phớt lờ hoặc không có sự đồng cảm với người khác. Hay ảo tưởng về sự thành công của bản thân và nhạy cảm quá mức với những thất bại của mình. Cùn mòn về cảm xúc với mọi người, thiếu kĩ năng đồng cảm. Ám ảnh về bản thân. Theo đuổi những mục đích ích kỷ.

Những người nhân cách ái kỷ thường có hình ảnh bản thân cao. Tuy nhiên, sự yêu mến bản thân này rất khác biệt. Những người có hình ảnh bản thân cao thường rất khiêm tốn, trong khi đó những người ái kỷ lại tự cao tự đại. Những nghiên cứu mới nhất đưa ra những bằng chứng cho rằng người ái kỷ có thể có cả sự an toàn hoặc phô trương cả bên trong lẫn bên ngoài. Nhìn bên ngoài có thể kết luận rằng nhân cách ái kỷ sẽ có khuynh hướng trở nên phòng vệ mỗi khi hình ảnh bản thân của họ bị đe dọa. Người ái kỷ cũng có thể rất hung hăng. Lối sống đôi lúc nguy hiểm, nhìn chung phản ánh nhu cầu tìm kiếm cảm xúc và xung năng (ví dụ: quan hệ tình dục phóng túng, chi tiêu táo bạo).

Đồng thời, người ái kỷ thường có vẻ ngoài rất lôi cuốn và thu hút ánh nhìn vậy nên họ có lợi thế trong lần gặp gỡ đầu tiên. Tuy vậy, về lâu dài thì người ái kỷ sẽ dần trở nên u phiền đặc biệt là về phương diện xã hội (khó khăn trong mối quan hệ lâu dài). Thông thường sự xuống dốc của người ái kỷ thường diễn ra trước tuổi 30.

Nguyên nhân gây bệnh

Nguyên nhân của bệnh ái kỷ chưa thật sự rõ ràng. Có nhiều nghiên cứu và giả thiết cho rằng gene di truyền học đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách ái kỷ (khoảng 50%). Nhưng ảnh hưởng của môi trường cũng làm nên nhân cách ái kỷ. Yếu tố văn hóa cũng có thể dẫn tới nhân cách ái kỷ (ví dụ như xem những vai diễn ái kỷ trên TV, môi trường thù địch và chiến tranh). Các vấn đề về tâm sinh lý cũng có thể là một nguyên nhân gây ra rối loạn nhân cách ái kỷ. Trường hợp bị ngược đãi, bỏ bê, nuông chiều và khen ngợi quá nhiều... cũng dễ dẫn đến ái kỷ.

Các yếu tố nguy cơ làm tăng khả năng mắc rối loạn nhân cách ái kỷ là: Bố mẹ đánh giá tầm quan trọng của con quá mức. Chỉ trích khi con sợ hãi và thất bại.

Căn bệnh khó điều trị

Trên thực tế, bệnh rối loạn nhân cách ái kỷ là một trong những bệnh tâm lý có tỷ lệ người mắc bệnh không cao. Thế nhưng bệnh nhân ái kỷ đang dần tăng. Cũng giống như các bệnh rối loạn nhân cách khác, rối loạn nhân cách ái kỷ rất khó chữa. Một phần là vì người mắc bệnh không cho rằng họ bị bệnh và vì thế nên họ không tự đi tìm sự giúp đỡ từ các chuyên gia. Phương thức chữa bệnh phổ biến nhất là dựa vào nói chuyện và khám phá tiềm thức người bệnh, hướng dẫn họ suy nghĩ tích cực hơn, tốt hơn. Lâu dài, các chuyên gia sẽ giúp người bệnh có cái nhìn sâu vào bên trong suy nghĩ của họ, giải đáp tại sao họ lại có thái độ và hành vi như thế với hy vọng rằng điều này sẽ giúp cho họ cải thiện hành vi của mình. Không có loại thuốc nào có thể chữa rối loạn nhân cách ái kỷ.

Liệu pháp tâm lý cá nhân là cách điều trị tốt nhất được bác sĩ tâm thần và bác sĩ tâm lý sử dụng. Bố mẹ hoặc người thân trong gia đình nên trò chuyện hàng ngày với người bệnh để mối quan hệ thân mật hơn. Ngoài ra, còn có một phương pháp khác gọi là phương pháp nhận thức hành vi. Phương pháp này giúp phát hiện ra niềm tin và hành vi không lành mạnh đồng thời thay thế bằng những hành động tích cực hơn. Bên cạnh đó, thuốc chống trầm cảm cũng đôi khi được dùng ở bệnh nhân bị trầm cảm hoặc lo âu.

Ngoài ra người bệnh ái kỷ cần áp dụng những thói quen sinh hoạt giúp hạn chế diễn tiến của bệnh ái kỷ như: Có chế độ sinh hoạt phù hợp, giảm bớt các tương tác không cần thiết trên mạng xã hội. Cố gắng giảm căng thẳng bằng cách thiền, tập yoga hoặc thái cực quyền.

Luôn cởi mở, hòa đồng với mọi người. Tìm hiểu về bệnh lý này để sớm nhận ra các dấu hiệu hoặc triệu chứng mà mình đang có, từ đó có những cách điều trị phù hợp. Đến cơ sở y tế nếu bạn nghĩ đến việc làm hại bản thân hoặc người khác.

BS. TÙNG ANH

8 giờ căng thẳng cắt 23kg khối u trên cơ thể thanh niên đi như bò trên đường

 

Khối u to khiến bệnh nhân phải cúi hết người để đi lại gần như bò trên đường

Khoa Phẫu thuật Hàm mặt - Tạo hình - Thẩm mỹ BV Việt Đức đã tiếp nhận bệnh nhân Nguyễn Văn S. 34 tuổi, quê ở N.A. nhập viện với 1 khối u khổng lồ ước chừng 40-45 kg to hơn cả phần cơ thể còn lại của bệnh nhân. Khối u chiếm toàn bộ phần lưng mông và gần như toàn bộ đùi và cẳng chân bên trái của bệnh nhân. Khối u to đến nỗi bệnh nhân không thể đi lại bình thường mà phải cúi hết người ra phía trước gần như là bò trên đường mới đủ đối trọng với phần khối u như muốn kéo bệnh nhân ngã ngửa ra sau

Toàn bộ hình ảnh khối u khoảng 40-45kg trú ngụ trên cơ thể bệnh nhân S.                                                  Ảnh BVCC

Thông tin từ gia đình S. cho biết S là con thứ hai trong một gia đình hộ nghèo ở một huyện miền núi của N.A. Cậu bé lớn lên cùng với khối u vùng lưng và đùi, khối u phát triển theo tuổi và ngày càng to, chân to như chân voi và khối u ở lưng giống như cõng thêm một người nữa trên lưng. Nhà nghèo, gia đình không đủ tiền chạy chữa cho S. từ nhỏ. Có lúc khối u to quá đã vỡ ra ngoài khiến S. chảy máu đến ngất đi tưởng chết.

Mới đây, gia đình cũng đã cố gắng thu xếp vay mượn  để có tiền đưa S. ra Hà Nội khám bệnh. Khi S. đến khám tại Bệnh viện Việt Đức thì khối u khổng lồ đã phát triển hết toàn bộ vùng lưng mông và toàn bộ đùi gối T chiếm quá nửa cơ thể. Chỗ khối u bị vỡ để lại một vết loét sâu to hơn bàn tay hàng năm trời vẫn chưa liền.

PGS.TS. Nguyễn Hồng Hà, trưởng khoa Phẫu thuật Tạo hình Thẩm mỹ- Bệnh viện Việt Đức cho biết, bệnh nhân S. vào viện trong tình trạng nhợt nhạt suy kiệt thiếu máu nặng do mất máu mạn tính, đi lại thì rất khó khăn gần như phải bò xuống đường hoặc ngồi xe lăn vì không đủ sức vác nổi khối u. Cả cổ xương đùi bên trái cũng đã biến dạng và gãy gục vì phải vác 1 khối u quá to trong nhiều năm. Nhiệt độ khối U cũng nóng hơn bình thường 1 đến 2 độ chứng tỏ trong khối u có sự tăng sinh mạch máu rất lớn dẫn đến nguy cơ chảy máu cao trong mổ .

Thăm khám lâm sàng các BS chẩn đoán bệnh nhân bị chứng bệnh u xơ thần kinh. Bệnh nhân được chỉ định làm xét nghiệm cận lâm sàng, chụp chiếu chẩn đoán hình ảnh để đánh giá mức độ tình hình khối u và sức khỏe bệnh nhân.

“Các kỹ thuật viên cũng rất kinh ngạc  khi  thấy u to đến nỗi không thể đưa bệnh nhân vào lồng chụp cộng hưởng từ được do đó không phân biệt được đâu là khối u và đâu là dây thần kinh. Nguy cơ cắt bỏ dây thần kinh hông khoeo to ở vùng mông dẫn đến liệt hoàn toàn chi dưới là rất cao”- PGS.TS Nguyễn Hồng Hà cho hay.

Các bác sĩ đang tiến hành ca phẫu thuật giải thoát khối u xơ thần kinh cho bệnh nhân S.                                                  Ảnh BVCC

3 khó khăn trong việc "giải thoát" khối u có trọng lượng lớn hơn cơ thể bệnh nhân

Theo PGS.TS Nguyễn Hồng Hà, đối với trường hợp của bệnh nhân S, để thực hiện giải phóng khối u này, các chuyên gia đã khó khăn đặt ra các khó khăn để tìm cách hóa giải.

Khó khăn thứ nhất là khối u của bệnh nhân S. quá to chiếm quá nửa cơ thể của bệnh nhân, riêng trọng lượng khối u có thể lên đến 40-45 kg nên nếu cố gắng cắt hết u trong một lần phẫu thuật có thể bệnh nhân sẽ không qua khỏi thậm chí là tử vong trên bàn mổ.

“Các bác sĩ đã quyết định phải tiến hành phẫu thuật theo nhiều giai đoạn ít nhất là hai lần. Lần đầu lấy tối đa khối u vùng lưng và mông của bệnh nhân. Nếu như bệnh nhân có thể bình phục được sau lần mổ thứ nhất thì sẽ tiến hành cắt tiếp khối u vùng đùi gối bên trái, thậm chí có thể phải tháo bỏ khớp háng bên trái nếu chảy máu quá nhiều”- PGS.TS Hà thông tin.

Khó khăn tiếp theo được kể đến là do khối u quá to không thể đưa vào lồng chụp cộng hưởng từ được nên không thể phân biệt được giữa khối u và các dây thần kinh vận động cho hai chân. Vì vậy sẽ rất nguy hiểm trong lúc mổ bóc khối u rất dễ gây tổn thương vào thần kinh hông khoeo dẫn đến liệt hai chi dưới.

Và khó khăn cuối cùng là khối u tăng sinh mạch máu rất nhiều chảy máu dữ dội trong mổ vì vậy các bác sĩ đã phải dùng đến hai dao siêu âm cực lớn vốn chỉ được  dùng cầm máu trong cắt gan để vừa mổ vừa hàn mạch, giảm nguy cơ chảy máu.

Trước thực tế này, Ban Giám đốc Bệnh viện Việt Đức đã tổ chức một cuộc hội chẩn liên chuyên khoa trong toàn bệnh viện: Hàng chục chuyên gia từ các chuyên khoa như Huyết học, Truyền máu, Thận lọc máu, Chẩn đoán hình ảnh, Gây mê hồi sức, Chấn thương chỉnh hình … phối hợp với các bác sỹ Phẫu thuật Tạo hình Thẩm mỹ thăm khám kỹ càng và đề ra phương án điều trị lâu dài cho người bệnh.

23 kg khối u trên tổng số 40kg khối u được cắt ra khỏi cơ thể bệnh nhân S.                                                   Ảnh BVCC

Kíp phẫu thuật huy động hơn 10 phẫu thuật viên và 20 nhân viên, bác sỹ khu mổ và gây mê hồi sức. Sau hơn 8 tiếng phẫu thuật các bác sỹ đã cắt gần hêt khối u vùng lưng và mông khoảng 23 kg (Phần u lớn đùi và gối trái không thể phẫu thuật cùng lúc nên phải để chờ phẫu thuật tiếp theo). Tổng lượng máu phải truyền cho bệnh nhân là hơn 5 lít.

TS. Đào Văn Giang, một thành viên của kíp mổ cho biết, hiện bệnh nhân đã qua giai đoạn hồi sức tích cực nhưng vẫn còn trong tình trạng phải theo dõi sát chức năng tim phổi, thận, gan có thể hồi phục như thế nào sau một ca mổ kéo dài và rất lớn này. Bệnh nhân cũng cần điều trị kháng sinh tốt để chống nhiễm trùng. Tiếp tục truyền máu, truyền đạm nâng cao thể trạng và giúp cho quá trình liền vết thương.

Về lâu dài nếu tình trạng bệnh nhân ổn định sau lần mổ đầu tiên thì có thể tính đến phẫu thuật tiếp để lấy bớt khối u vùng đùi và gối trái, giúp giảm nhẹ gánh nặng cho bệnh nhân và phòng ngừa nguy cơ ung thư hóa.

Theo Th.S Trần Thị Thanh Huyền khoa Phẫu thuật Tạo hình Thẩm mỹ bệnh viện Việt Đức, U xơ thần kinh (Neurofibromatosis NF) thường có 3 typ. Trong 3 loại này loại typ 1 (NF1) là hay gặp nhất, nó còn được gọi là bệnh Von Recklinghausen hay u xơ thần kinh biểu hiện ở da, sau đến typ 2 thường biểu hiện ở trong nội tạng hay trong hệ thần kinh trung ương và typ 3 hiếm gặp. Tỷ lệ mắc bệnh Von Recklinghausen (NF1) là 1/2000 dân; typ 2 là 1/35.000 dân.Một trong những nguyên nhân của bệnh NF1 là do biến đổi cấu trúc gen trên nhiễm sắc thể số 17, sự biển đổi này ảnh hưởng đến gen quy định về xơ sợi thần kinh làm phát triển khối u theo chiều hướng ác tính hoặc lành tính. Theo y văn thế giới tỷ lệ di truyền của bệnh này là 50/50, như vậy có những trường hợp bệnh nhân mắc bệnh nhưng không có thành viên nào trong gia đình mắc bệnh. Hiểu theo cách khác là nếu một trong hai bố mẹ bị bệnh thì tỉ lệ có thể bị bệnh của con cái là 50/50.Điều trị gồm phẫu thuật cắt bỏ u tận gốc chỗ ra của dây thần kinh bị bệnh, xạ trị, hóa chất và phẫu thuật tạo hình.NF rất dễ tiến triển thành ung thư nên phải thường xuyên kiểm tra giải phẫu bệnh các khối u. Đây là bệnh lý do biến đổi gen nên nếu bệnh nhân có khối u xơ thần kinh cần xin ý kiến chuyên gia di truyền về khả năng truyền bệnh trước khi có con.

 

Thái Bình

Nguy cơ tử vong do phình động mạch chủ bụng

Phình ĐMC bụng giai đoạn đầu hầu hết không có triệu chứng gì, thường được phát hiện tình cờ khi siêu âm hoặc chụp phim cắt lớp vi tính. Tiêu chuẩn chẩn đoán phình ĐMC khi một đoạn ĐMC giãn ra ít nhất gấp 1,5 lần kích thước bình thường của nó.

Dấu hiệu khi bị phình và đe dọa vỡ phình

Triệu chứng đau vùng bụng, đau thường khu trú tại vùng hạ vị hay phía sau lưng. Cảm giác đau thường liên tục, bứt rứt kéo dài hàng giờ đến nhiều ngày. Ngược lại với đau cơ xương vùng lưng, vận động không ảnh hưởng đến cảm giác đau do phình, mặc dù ở một tư thế nhất định nào đó có thể người bệnh cũng cảm thấy dễ chịu hơn.

Việc xuất hiện những cơn đau mới hay đau tăng lên thường xuất hiện đột ngột có thể báo trước sự giãn thêm ra hoặc đe doạ vỡ phình. Cơn đau có đặc điểm đau liên miên không dứt, dữ dội và khu trú ở sau lưng hay phần bụng dưới. Cảm giác đau có thể lan xuống vùng bẹn, ra vùng hông, hay xuống chân. Vỡ phình thực sự kèm theo một cơn đau lưng đột ngột cùng với đau bụng và bụng căng cứng. Hầu hết các bệnh nhân đều có một khối, có thể sờ thấy ở bụng và đập theo nhịp tim kèm theo tụt huyết áp được xem là biểu hiện đặc trưng của phình ĐMC bụng.

Nguy cơ tử vong do phình động mạch chủ bụngCan thiệp nội mạch (stent-graft) ngăn ngừa vỡ phình động mạch chủ bụng.

Phình ĐMC bụng có các dấu hiệu dọa vỡ, bệnh nhân đột ngột đau bụng dữ dội, tương tự như những tình trạng bệnh lý cấp tính ở bụng khác như cơn đau quặn thận, viêm ruột thừa, hay xuất huyết dạ dày - ruột.

Nguyên nhân gây phình ĐMC bụng

Có nhiều nguyên nhân gây ra phình ĐMC bụng. Hút thuốc lá là yếu tố nguy cơ mạnh nhất gây phình ĐMC bụng, tiếp theo là tuổi tác, tăng huyết áp, tăng cholesterol máu và xơ vữa động mạch. Giới tính và yếu tố di truyền cũng ảnh hưởng đến quá trình hình thành phình ĐMC.

Tỷ lệ bị phình ĐMC bụng tăng nhanh sau 55 tuổi ở nam giới và 70 tuổi ở nữ giới. Xơ vữa động mạch được cho là nguyên nhân lớn gây phình ĐMC bụng. ĐMC bụng dưới thận chịu ảnh hưởng của quá trình vữa xơ động mạch nhiều nhất và là vị trí hay gặp của phình ĐMC bụng.

Điều trị thế nào?

Với phình ĐMC bụng có nguy cơ vỡ thấp (đường kính dưới 5cm) được điều trị nội khoa, kiểm soát các yếu tố nguy cơ là điều quan trọng nhất.Kiểm soát chặt chẽ huyết áp và rối loạn lipid máu. Dùng thuốc chẹn bêta giao cảm làm giảm sự tiến triển của khối phình và giảm nguy cơ bị vỡ.

Nguy cơ tử vong do phình động mạch chủ bụngCần kiểm tra huyết áp thường xuyên để phòng ngừa nguy cơ mắc bệnh. Ảnh: TM

Bên cạnh phương pháp phẫu thuật kinh điển thay đoạn động mạch phình bằng đoạn động mạch nhân tạo thì hiện nay bác sĩ sẽ tiến hành điều trị can thiệp nội mạch (stent-graft). Bác sĩ sẽ đặt đoạn mạch nhân tạo đặt luồn qua da mà không cần phẫu thuật. Thời gian làm can thiệp thường chỉ kéo dài khoảng 60 phút. Sau đó, bệnh nhân sẽ được chuyển về khoa theo dõi tiếp trong 2 ngày.

Lời khuyên của thầy thuốc

Phình ĐMC bụng giai đoạn đầu hầu hết không có triệu chứng gì, vì thế việc khám sức khỏe định kỳ đều đặn để có thể phát hiện bệnh sớm. Đặc biệt là những người có tiền sử gia đình bị phình ĐMC bụng hay những người trên 60 tuổi có tiền sử hút thuốc lá hay tăng huyết áp. Chụp cắt lớp vi tính, siêu âm ĐMC, chụp cộng hưởng từ là các phương pháp chẩn đoán có giá trị trong tầm soát bệnh. Khi phát hiện có phình động mạch chủ bụng thì quan trọng nhất là theo dõi tốc độ thay đổi kích thước túi phình để có quyết định điều trị can thiệp kịp thời tránh khối phình vỡ sẽ dẫn đến tử vong. Lưu ý, tỷ lệ tử vong do vỡ phình rất cao: 25% tử vong trước khi đến được bệnh viện và 51% tử vong trong bệnh viện mà chưa kịp làm phẫu thuật.

Nguy cơ trụy tim mạch do vỡ phình ĐMC bụngChoáng mất máu và các biến chứng của vỡ phình ĐMC có thể xảy ra nhanh chóng. Chảy máu sau phúc mạc có thể biểu hiện bằng tụ máu ở bên sườn và vùng bẹn. Vỡ vào khoang phúc mạc có thể dẫn đến căng cứng bụng, trong khi vỡ vào trong tá tràng biểu hiện bằng xuất huyết dạ dày - ruột ồ ạt. Dòng máu chảy qua chỗ phình bị rối loạn và có thể hình thành các cục máu đông dọc theo thành động mạch. Cục máu đông này cùng với những mảnh xơ vữa động mạch có thể trôi theo dòng máu gây thuyên tắc mạch và ảnh hưởng đến tuần hoàn của các động mạch phía xa. Tuy nhiên, vỡ phình ĐMC là nguy hiểm nhất. Khi vỡ phình ĐMC xảy ra thì có tới 80% các trường hợp bị vỡ vào phía sau phúc mạc bên trái và có thể làm hạn chế phần nào sự vỡ ra, trong khi hầu hết các trường hợp còn lại vỡ vào khoang phúc mạc và gây chảy máu không kiểm soát được dẫn đến truỵ tim mạch nhanh chóng.

BS. Trần Văn Khanh

Nhận diện thiểu năng tuần hoàn não

Cháu đã uống thuốc theo đơn và uống cả thuốc Đông y... nhưng bệnh không tiến triển. Xin hỏi, bệnh có nguy hiểm không, chữa thế nào?

Hoàng Thị Trang (Nghệ An)

Thiểu năng tuần hoàn não (TNTHN) là bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi, nhưng phổ biến nhất ở người cao tuổi, đặc biệt là người lao động trí óc. Bệnh có nguy cơ gây tử vong thứ ba sau bệnh tim mạch và ung thư. Bệnh TNTHN tiến triển từ từ. Mới đầu bệnh nhân thấy mệt mỏi, không thấy vui vẻ, kém hoạt bát, tính tình thay đổi dần, những điều thích thú quan tâm trước đây nay thấy nhạt nhẽo, ưa nơi yên tĩnh. Khi bệnh nặng lên, bệnh nhân sẽ thấy nhức đầu lan tỏa khắp đầu, có cảm giác căng nặng trong đầu, nhất là mỗi khi phải suy nghĩ nhiều. Cùng với nhức đầu là chóng mặt (gặp 87% trường hợp) hoặc bập bềnh như say sóng; hoa mắt, tối sầm mặt, nhất là khi chuyển tư thế nằm sang tư thế đứng đột ngột (cơn chóng mặt có thể chỉ vài phút, nhưng có khi dài đến vài ngày); xuất hiện dị cảm như cảm giác tê tê, bì bì ở đầu ngón, cảm giác kiến bò, đau dọc các xương sườn, có tiếng ve kêu, cối xay lúa trong tai; rối loạn về giấc ngủ, rối loạn về sự chú ý dẫn đến suy nhược cả cơ thể lẫn tinh thần, đãng trí, khả năng tập trung tư tưởng rất kém; rối loạn về cảm xúc, cảm thấy bồn chồn, không làm chủ được mình, hay mủi lòng, dễ tủi thân; thay đổi nhân cách... Cháu nên đi khám chuyên khoa thần kinh tại bệnh viện để có kết luận chính xác và điều trị.

BS. Vũ Nhân

Thiết bị mới xác định nấm men gây bệnh nghiêm trọng

Candida auris thuộc họ vi khuẩn gây bệnh tưa miệng. Tuy nhiên, các nhiễm khuẩn nấm thường gây nhiễm khuẩn ở bộ phận sinh dục và miệng, còn Candida auris “hoành hành” ở đường tiết niệu và đường hô hấp. Điều này đồng nghĩa với việc các nấm men có thể đi vào máu và lan truyền khắp cơ thể, gây nhiễm khuẩn xâm lấn nghiêm trọng.

Hệ thống BRUKER MALDI Biotyper CA sử dụng công nghệ phổ khối lượng hấp phụ/ion hóa bằng laser ma trận (MALDI-TOF) kết hợp với cơ sở dữ liệu sinh vật tham chiếu. Vi sinh vật nuôi cấy từ các mẫu bệnh phẩm được ion hóa bằng laser để tạo ra một phổ sinh vật, được kết hợp với cơ sở dữ liệu sinh vật tham chiếu cho phép xác định chính xác mầm bệnh.

Việc cho phép sử dụng hệ thống này rất quan trọng để xác định kịp thời các vi sinh vật liên quan đến các vụ dịch mới nổi, kịp thời chăm sóc và điều trị cho người bệnh.

Bảo Lâm

((Theo FDA, 4/2018))

Thay đổi lối sống tốt cho bệnh suy tim

Nó là hậu quả của nhiều bệnh lý khác nhau, chẳng hạn như bệnh mạch vành, bệnh van tim, cơ tim, màng ngoài tim, loạn nhịp tim,… Bệnh có thể gặp ở mọi độ tuổi, khi mắc người bệnh suy tim sẽ bị ảnh hưởng nhiều đến chất lượng sống và biến chứng nặng nề nhất là có thể gây đột qụy. Vì vậy, việc hiểu đúng bệnh để biết cách chăm sóc là rất quan trọng.

Nhận biết triệu chứng

Suy tim tiến triển từ từ trong nhiều năm, đôi khi cũng có những đợt cấp có thể ảnh hưởng đến tính mạng. Đây là một hội chứng ảnh hưởng đến chất lượng sống của người bệnh bởi có các biểu hiện sau:

Mệt mỏi: Đây là một trong các triệu chứng thường hay gặp nhất ở người bệnh có rối loạn chức năng tim mạch, tuy nhiên mệt là triệu chứng không đặc hiệu. Mệt khi thực hiện những việc đơn giản như đi thang bộ lên lầu, xách giỏ đi chợ hay đi bộ... có thể đó là những dấu hiệu cảnh báo trái tim của bạn đang bị suy yếu.

Suy tim cần được phát hiện và điều trị sớm.

Suy tim cần được phát hiện và điều trị sớm.

Khó thở: Khi tim bị suy, co bóp kém nên ứ máu phổi, các mạch máu ở phổi giãn căng, áp lực cao chèn ép phế quản gây khó thở. Đây là triệu chứng hay gặp nhất của suy tim, người bệnh có cảm giác hụt hơi, hồi hộp, ngộp thở, tình trạng khó thở tăng lên khi gắng sức hoặc khi nằm đầu thấp. Khó thở thường về đêm, người bệnh thường bị thức giấc do bị ngộp thở, ho khan phải ngồi dậy hoặc nằm đầu cao mới dễ chịu, trường hợp suy tim nặng người bệnh luôn phải ngủ ở tư thế ngồi. Khó thở khi gắng sức thường kèm khó thở khi nằm hoặc khó thở kịch phát về đêm.

Đau thắt ngực: Đau ngực thường xảy ra sau gắng sức, vị trí đau ở vùng ngực trái trước tim nhưng cũng có thể là cảm giác nặng ngực, tức ngực, ngực bị thắt nghẹn, bị ép, hiếm khi người bệnh có triệu chứng đau nhói như dao đâm. Đau ngực thường giảm khi nghỉ ngơi.

Phù: Thường xảy ra chiều tối, bắt đầu ở chân, người bệnh thường cảm giác đi giày chật, phù đối xứng. Khi suy tim nặng, phù thêm ở đùi, mặt, bụng, phù tăng khi ăn mặn. Thường người bệnh hay có triệu chứng khó thở đi kèm.

Ho: Ho trong trường hợp suy tim là ho khan, khó khạc đờm. Ho làm người bệnh mất ngủ, ho do suy tim ở giai đoạn đầu rất dễ nhầm với các bệnh viêm nhiễm đường hô hấp.

Ai dễ mắc chứng suy tim?

Bệnh suy tim thường xảy ra ở những người có tuổi, tuy nhiên ngày nay cuộc sống hiện đại và lối sống không lành mạnh nên bệnh đang trẻ hóa. Ngoài ra, những yếu tố có nguy cơ dẫn đến bệnh tim mạch như tăng huyết áp, đái tháo đường và cholesterol máu cao cũng gia tăng. Người ta cũng ghi nhận được người còn rất trẻ cũng bị bệnh tim. Khi mà họ là nạn nhân của chứng nhồi máu cơ tim hoặc nhiễm virut có ảnh hưởng đến tim. Cũng nên cẩn thận với việc lạm dụng rượu mạnh, rất có hại cho sức khỏe.

Người bệnh suy tim nên ăn uống luyện tập thế nào?

Người bệnh suy tim cần dùng thuốc theo chỉ định của bác sĩ. Không bao giờ dừng thuốc, thay đổi liều hoặc uống bất kỳ loại thuốc nào khác mà không được bác sĩ kê đơn.

Ngoài ra, bệnh nhân cần thay đổi lối sống là xây dựng lối sống đúng đắn, thực hiện một chế độ ăn hợp lý, có chương trình tập luyện thể dục và nghỉ ngơi phù hợp, đây là 3 biện pháp mà bệnh nhân suy tim phải biết.

Bệnh nhân suy tim cũng cần tham khảo ý kiến của bác sĩ để có chế độ ăn đúng, giúp bổ sung được những chất còn thiếu, giảm cân một cách khoa học và phù hợp với tình trạng bệnh tật nhưng vẫn ngon miệng.

Về lượng muối: nếu ăn quá nhiều muối (ăn mặn) sẽ gây ứ dịch và phù, gây co mạch làm tăng huyết áp, dẫn đến làm nặng thêm tình trạng suy tim. Bệnh nhân suy tim không được dùng quá 2g muối/ ngày (chưa đến 1 thìa cafe). Và lượng muối ăn vào mỗi ngày được tính từ tất cả các nguồn thức ăn, nước uống.

Cholesterol và chất béo: nếu cholesterol máu cao có thể gây bệnh lý mạch vành, gây suy tim. Do đó, bệnh nhân suy tim phải hạn chế mỡ hòa tan (là loại mỡ gây tăng cholesterol), thường có trong các loại thực phẩm: các loại thịt có màu đỏ, lòng đỏ trứng gà, thức ăn có nguồn gốc từ động vật, do đó, nên thay thế các loại mỡ động vật bằng các loại dầu thực vật,...

Người bệnh suy tim nên bỏ rượu hoặc phải hết sức hạn chế: uống không quá 1 ly bia hoặc 1 ly rượu vang mỗi ngày. Nên hạn chế tối đa cà phê và các thức uống giải khát có chứa chất caffein như nước tăng lực… Còn khi đã suy tim nặng thì nhất thiết phải bỏ rượu bia.

Bệnh nhân suy tim nên ăn nhiều thực phẩm chứa kali và magnesium, vì chúng rất cần cho hoạt động của tế bào cơ tim và vì bệnh nhân thường bị giảm kali do dùng thuốc lợi tiểu.

Các bài tập thể dục có thể giúp người bệnh suy tim thấy khỏe hơn, giảm căng thẳng và lo lắng, giúp kiểm soát trọng lượng cơ thể, huyết áp và đường huyết.

Các hoạt động thích hợp với người bệnh suy tim thông thường là đi bộ. Đạp xe và bơi lội: có thể được nếu bệnh nhân từng tập luyện trước đây và suy tim không quá nặng. Tuy nhiên, tất cả các bệnh nhân suy tim đều được khuyến cáo bài tập loại gì và mức độ tùy thuộc vào tình trạng suy tim nên cần tham khảo bác sĩ để làm trắc nghiệm khả năng gắng sức hoặc cho ý kiến về môn tập phù hợp.

Những điều nên làm khi tập luyện thể lực là bắt đầu thật chậm, tăng dần thời gian và cường độ vận động nếu thấy đủ sức. Mức vận động cần đạt: ít nhất 30 phút/ ngày (có thể chia thành nhiều lần), trên 5 lần/ tuần.

Tập vào thời điểm nhất định trong ngày để tạo thói quen. Uống 1 tách nước trước, trong và sau khi tập. Mặc quần áo thoáng mát, mang giày nhẹ có dây buộc hoặc giày vải. Làm ấm cơ thể bằng các bài tập co duỗi cơ trước khi vận động. Theo dõi nhịp mạch và mức gắng sức đang thực hiện. Nên tập luyện cùng với một người bạn thân khỏe mạnh. Phải nghỉ ngơi đầy đủ để hồi phục sau vận động.

Những điều cần tránh khi luyện tậpTránh những hoạt động gây các triệu chứng sau: khó thở; choáng váng, chóng mặt; đau ngực; buồn nôn; vã mồ hôi lạnh… nếu xảy ra những dấu hiệu này, phải dừng tập ngay. Tránh những bài tập đòi hỏi nhu cầu giải phóng năng lượng nhanh, cao. Tránh những bài tập mang tính đối kháng, cạnh tranh cao, khiêng vác nặng, có va chạm. Không tập luyện khi đói hoặc ngay sau bữa ăn. Tránh tập luyện trong môi trường quá nóng hoặc quá lạnh hoặc khi cảm thấy không được khỏe.

BS. Mạnh Hùng

Bệnh mùa nắng nóng…

Tại sao mùa hè một số bệnh gia tăng?

Có nhiều lý do làm cho bệnh tật gia tăng vào mùa nắng nóng:

Thực phẩm dễ ôi, thiu, biến chất: Vi khuẩn trong thức ăn đã được chế biến sẽ phát triển nhiều nếu để ở nhiệt độ từ 4,5 đến 60 độ C. Vào những ngày nắng nóng, nhiệt độ môi trường tăng cao, có khi lên đến 39, thậm chí 40 độ C là điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn phát sinh, phát triển. Cụ thể, nếu thức ăn để trong nhiệt độ này, trong vòng 20 phút số vi khuẩn sẽ tăng gấp đôi, để trong 2 giờ đồng hồ thì vi khuẩn sẽ tăng gấp 12 lần.

Bệnh mùa nắng nóng…

Chỉ số tia cực tím tăng cao: Khi tầng ozon bị tác động, lượng tia cực tím chiếu xuống càng mạnh có thể gây ra nhiều tác động tiêu cực tới con người. Ở những ngày nắng gắt, chỉ số bức xạ tia cực tím UV đo được tại nhiều khu vực ở nước ta vượt ngưỡng an toàn, gây nguy cơ tổn thương mắt, da, thậm chí làm tăng nguy cơ ung thư.

Vi sinh vật, côn trùng phát triển: Mùa nắng nóng là điều kiện thuận lợi cho các vi sinh vật phát triển, đặc biệt là các vi sinh vật gây bệnh đường ruột (tả, lỵ, thương hàn, E.coli…), virus gây bệnh (bệnh Rubella, virus gây bệnh thủy đậu, quai bị)... Bên cạnh đó các loại bệnh do côn trùng  mang mầm bệnh (từ người bệnh sang người lành như bệnh sốt xuất huyết, bệnh sốt rét...) hoặc bệnh từ động vật sang cho người (bệnh dịch hạch) gặp khá nhiều vào mùa nắng nóng.

Vệ sinh nhà cửa không sạch sẽ: Mùa nắng nóng nếu trẻ nằm hoặc chơi ở trên sàn nhà không đảm bảo vệ sinh, thêm vào đó do thời tiết oi bức, tuyến mồ hôi và tuyến nhày sẽ tăng cường hoạt động để thải nhiệt cho cơ thể, gây ra tình trạng ẩm ướt tại các vùng như lưng, trán, cổ, kẽ tay, chân và bẹn. Nếu không vệ sinh sàn nhà sạch sẽ hoặc không chú ý vệ sinh cơ thể, những chất này không thoát hết sẽ ứ đọng trong ống bài tiết của da làm bít lỗ chân lông và kết hợp với vi khuẩn gây viêm da và nấm da.

Bệnh mùa nắng nóng…Trẻ nhỏ là đối tượng dễ bị vi khuẩn, côn trùng tấn công trong mùa hè.

Sử dụng đồ làm mát chưa đúng cách: Một đặc điểm thường hay gặp là mùa nắng nóng nhiều gia đình sử dụng máy lạnh hoặc dùng quạt với tốc độ không phù hợp (quá lớn), đặc biệt đối với trẻ nhỏ, người cao tuổi, người có sức khỏe yếu. Do tính chất nghề nghiệp, cán bộ văn phòng suốt ngày ngồi trong phòng máy lạnh, khi ra ngoài thời tiết nắng nóng đột ngột rất dễ lâm bệnh, nhất là sốc nhiệt.

Bệnh nào  thường xảy ra trong mùa nắng nóng

Say nắng, say nóng: Say nắng là do chiếu xạ của tia cực tím ánh nắng mặt trời hoặc đang ở trong phòng máy lạnh có nhiệt độ thấp đi ra ngoài đường hoặc tắm sông, ao hồ hoặc tắm biển lúc nắng gắt, nhiệt độ tăng cao. Còn say nóng thường gặp ở những người làm việc trong các hầm lò, nhà máy kín gió (thiếu thông khí), trong khi nhiệt độ của hầm lò, nhà máy tăng, kèm theo độ ẩm thấp.

Không dùng quạt gió với tố độ lớn, xoáy vào người, đặc biệt là trẻ em, người cao tuổi. Nếu dùng máy lạnh nên để ở nhiệt độ khoảng 26- 28 độ C. Mỗi lần đi ngoài nắng về không nên vào phòng máy lạnh ngay.

Một số bệnh về đường tiêu hóa: Nếu sử dụng các loại thực phẩm không đảm bảo vệ sinh hoặc dùng các loại nước giải khát, kem bị nhiễm vi sinh vật, nhất là nước giải khát, kem bán dạo, nước đá không tiệt trùng... là điều kiện rất tốt để vi sinh vật phát triển, từ đó dẫn đến ngộ độc thực phẩm, nhiễm trùng tiêu hoá gây tiêu chảy. Nếu nhiễm khuẩn đường tiêu hóa mà tác nhân gây bệnh là vi khuẩn tả hoặc vi khuẩn lỵ hay vi khuẩn thương hàn hoặc E.coli sẽ rất nguy hiểm cho tính mạng người bệnh và còn có thể lây lan cho nhiều người khác tạo nên dịch bệnh.

Bệnh vùng mũi họng: Khi thời tiết quá nóng, nếu mở quạt với tốc độ lớn hoặc ở trong phòng điều hòa máy lạnh nhiệt độ quá chênh lệch với môi trường bên ngoài (khoảng 15- 16 độC), có nguy cơ làm khô vùng hầu họng, tạo điều kiện thuận lợi cho vi sinh vật phát triển, nhất là vi khuẩn và vi nấm xâm nhập gây viêm VA, viêm amiđan, viêm thanh quản, phế quản cấp tính, nặng hơn có thể gây viêm phổi. Ngoài ra, nếu ngồi trong phòng máy lạnh quá lâu rồi ra ngoài trời nắng nóng làm thay đổi nhiệt độ đột ngột rất dễ gây viêm mũi họng, viêm xoang, viêm phế quản... Uống nước đá lạnh cũng là nguyên nhân gây viêm họng, đặc biệt là trẻ em.

Bệnh truyền nhiễm: Mùa nắng nóng bệnh thủy đậu, bệnh tay chân miệng, hoặc viêm não Nhật Bản, viêm màng não mô cầu rất dễ xuất hiện và lây lan thành dịch. Bệnh rôm sảy luôn rình rập trẻ nhỏ, nếu vệ sinh cá nhân kém, sàn nhà không đảm bảo vệ sinh, bệnh tuy nhẹ nhưng có thể bị bội nhiễm thành bệnh nặng. Ngoài ra, mùa nắng nóng do mặc mát mẻ rất dễ bị các loại côn trùng đốt, nguy hiểm nhất là muỗi mang mầm bệnh từ người bệnh sang người lành như bệnh sốt xuất huyết, bệnh Zika, bệnh sốt rét...

Gia tăng nguy cơ mắc bệnh tim: Mùa hè, nắng gay gắt không có lợi cho tim. Tim phải làm việc nhiều và nhanh hơn khiến mạch đập mạnh và huyết áp tăng, đặc biệt sẽ bất lợi cho những người bệnh đang mang trong mình bệnh về tim, tăng huyết áp, xơ vữa mạch. Nắng nóng sẽ ra nhiều mồ hôi gây mất nước, trong khi lượng nước bù vào thiếu rất dễ làm cho máu bị đặc lại và có thể gây ra tình trạng thiếu ôxy, bất tỉnh, nhồi máu hay đột quỵ.

Tăng cường miễn dịch- Chìa khóa phòng, chống bệnh tật

Giữ vệ sinh thân thể và môi trường: Cần vệ sinh tay trước và sau khi ăn, sau khi đi vệ sinh (rửa tay sạch bằng xà phòng thích hợp); ngủ cần nằm màn để tránh muỗi đốt, cần diệt muỗi, gián, chuột, bọ chét để tránh mắc các bệnh lây truyền từ động vật; vệ sinh sạch sẽ nơi ăn, chốn ở...

Bệnh mùa nắng nóng…Cùng bé rửa tay giữ vệ sinh để phòng bệnh.

Ăn chín uống sôi: Cần ăn uống hợp vệ sinh, uống nước đun sôi, để nguội, không ăn thực phẩm chưa nấu chín (tiết canh, nem chua, nem chạo…) và không uống nước giải khát, ăn kem không có nguồn gốc, đặc biệt là loại bán dạo, bán ở vỉa hè, ngoài chợ.

Tiêm phòng và uống thuốc đầy đủ: Với trẻ nên được tiêm phòng đầy đủ các loại vắc xin theo khuyến cáo của y tế. Những người bệnh mắc bệnh mạn tính (tim mạch, huyết áp, đái tháo đường, xương khớp…) cần khám bệnh định kỳ và uống thuốc theo chỉ định của bác sĩ.

Sử dụng điều hòa, máy lạnh hợp lý: Không dùng quạt gió với tố độ lớn, xoáy vào người, đặc biệt là trẻ em, người cao tuổi. Nếu dùng máy lạnh nên để ở nhiệt độ khoảng 26- 28 độC là vừa. Mỗi lần đi ngoài nắng về không nên vào phòng máy lạnh ngay. Đặc biệt trẻ em, người cao tuổi bị bệnh mạn tính về hô hấp, bệnh tim mạch, tăng huyết áp (người lớn) không nên ở trong buồng máy lạnh.

Luyện tập thể thao đều đặn: Với người lớn, trẻ em lớn cần tập thể dục đều đặn hàng ngày bằng bài tập thể dục buổi sáng hoặc những bài tập phù hợp với thể lực, sức khỏe của bản thân.

Bổ sung vitamin và khoáng chất từ hoa quả: Mùa hè có rất nhiều loại trái cây như thanh long, dưa lê, dưa hấu, đu đủ, nho... là những hoa quả chứa nhiều nước và vitamin C nên dù là người lớn hay trẻ nhỏ cũng nên ăn nhiều hơn để tăng cường sức khỏe.

Bệnh mùa nắng nóng…Tăng cường vận động ngoài trời giúp tăng sức đề kháng cho cơ thể.

Chỉ số tia cực tím tăng cao trong ngày nắng gắt có thể gây tổn thương da, mắt...

PGS.TS. Bùi Khắc Hậu

4 điều cần lưu ý khi sử dụng thuốc không kê đơn

Thuốc không kê đơn có thể chữa triệu chứng thông thường như nhức đầu, ho, mệt mỏi,…

1. Lựa chọn nhà thuốc uy tín

Mua thuốc ở nhà thuốc đạt chuẩn là việc tối cần thiết, giúp chúng ta yên tâm hơn về xuất xứ và chất lượng của sản phẩm. Tại đây, bạn được mua thuốc có nguồn gốc rõ ràng, được sử dụng thuốc có chất lượng cao trong điều kiện bảo quản theo quy định.

2. Kiểm tra kỹ trước khi mua thuốc

Dù đã được kê đơn hay tin tưởng nhà thuốc, chúng ta cũng không nên bỏ qua kiểm tra thông tin thuốc trước khi sử dụng. Thông tin gồm tên loại thuốc, thông tin đơn vị sản xuất, đặc biệt là hạn sử dụng. Ngoài ra, các bước kiểm tra cảm quan như: hộp hay vỉ thuốc có còn nguyên vẹn, không bị móp méo hay không? Viên thuốc có còn đồng nhất màu, không bị biến chất hay không cũng hết sức quan trọng.

Cần tìm hiểu kỹ thông tin về thuốc trước khi mua

3. Hỏi kỹ các thông tin liên quan đến thuốc cần mua

Nếu chưa được tư vấn kỹ càng thì đừng ngại hỏi thăm nhà thuốc một số câu hỏi sau đây:

- Thuốc này dùng cho bệnh gì?

- Nên dùng thuốc này như thế nào và liều lượng ra sao?

- Khi nào không nên dùng thuốc này?

- Tác dụng không mong muốn của thuốc này là gì?

- Nên tránh dùng những thuốc hoặc thực phẩm gì khi sử dụng thuốc này?

- Cần làm gì khi một lần quên dùng thuốc.

- Cần bảo quản thuốc này như thế nào?

- Những dấu hiệu hoặc triệu chứng và phương pháp xử lý khi dùng thuốc quá liều?

- Những điều cần thận trọng khi dùng thuốc?

- Khi nào cần tham vấn ý kiến của bác sĩ?

4. Thông báo ngay cho những người có chuyên môn khi thấy dấu hiệu bất thường

Ngay khi nghi ngờ những tác dụng bất thường của sản phẩm, cần ngưng sử dụng ngay và thông báo đến Bác sỹ đang phụ trách. Thời gian phát hiện và ngưng sử dụng càng sớm, nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe người bệnh càng được giảm thiểu.

Hapacol 250 với hoạt chất chính là paracetamol dưới dạng sủi bọt có mùi cam, vị ngọt giúp bé giảm nhanh cơn sốt. Đọc kỹ hướng dẫn sử dụng trước khi dùng.

Sản phẩm được sản xuất và phân phối bởi Công ty Cổ phần Dược Hậu Giang (288 Bis Nguyễn Văn Cừ, phường An Hoà, quận Ninh Kiều, TP Cần Thơ). Liên hệ: 07103891433 - 08 3891434.

Thông tin chi tiết về sản phẩm vui lòng truy cập: http://hapacol.vn/

Trị hiệu quả viêm da cơ địa trẻ em bằng thảo dược

Tình trạng ngứa nặng của viêm da cơ địa được gián tiếp gây nên bởi phản ứng quá mức với các kích thích khác nhau đến từ bên trong cơ thể và từ bên ngoài môi trường như thực phẩm và các chất gây dị ứng hít phải, các chất kích thích, các thay đổi từ môi trường vật lí (bao gồm ô nhiễm, độ ẩm ướt, ...), nhiễm vi khuẩn và căng thẳng tâm lí. Viêm da cơ địa là một bệnh da liễu thường gặp, ảnh hưởng tới 15% số trẻ em và 2-10% ở người lớn ở các nước công nghiệp hóa. Các bệnh dị ứng, bao gồm hen suyễn, thực phẩm và viêm mũi, cũng thường gặp ở bệnh nhân bị viêm da cơ địa.

Viêm da cơ địa thường liên quan đến chức năng hàng rào bảo vệ da bị tổn thương và một khiếm khuyết nào đó trong hệ miễn dịch bẩm sinh của da. Tuy nhiên, căn bệnh này thường gặp hơn ở thời thơ ấu khi mà những vùng da bị xây xước liên tục có thể dẫn đến đỏ da, đóng vẩy và biểu hiện nứt vỡ da thường được ghi nhận, đặc trưng bởi tình trạng tăng sừng hóa và gia tăng các đường da nhăn nheo, đặc biệt ở vùng da trước hố khuỷu, hố khoeo và gáy. Hiện tượng á sừng kèm theo xuất tiết (lớp vẩy cứng huyết thanh) cũng có thể được quan sát thấy.

Giáo sư Tiến sĩ Michael Tirant đang tư vấn miễn phí

Nhu cầu về các phương thức điều trị mới và có hiệu quả cho bệnh viêm da cơ địa với ít tác dụng phụ được đảm bảo, đặc biệt đối với các ca bệnh khó như các trường hợp biểu hiện hồi phục không hoàn toàn, trường hợp là trẻ em, phụ nữ có thai và đang cho con bú. Vì thế, các liệu pháp bằng thảo dược là lựa chọn hợp lí.

Một nghiên cứu được công bố trên tạp chí khoa học Journal of Biological Regulators & Homeostatic Agents nghiên cứu một nhóm 30 người (17 nam, 13 nữ), độ tuổi từ 5 đến 13 tuổi (tuổi trung bình là 9), bị ảnh hưởng bởi viêm da cơ địa từ khi trẻ mới sinh. Những người này đã được điều trị bằng các liệu pháp chống viêm truyền thống nhưng không thành công và đã ngừng điều trị 2 tuần trước khi tham gia vào nghiên cứu.

Các bệnh nhân đã được điều trị bằng các sản phẩm Dr Michaels® Dermatinex bao gồm xà bông dưỡng ẩm Moisturising Bar, thuốc mỡ bôi tại chỗ và thuốc thảo dược dạng uống PSC900. Các thành phần hoạt động có trong thuốc mỡ Dr Michaels® Dermatinex Ointment bao gồm kẽm oxit và nhiều loại tinh dầu thiên nhiên khác nhau có bản chất là tinh dầu khoáng chất. Các tinh dầu thiên nhiên (gồm tinh dầu hoa oải hương, tinh dầu hoa hương thảo, nhựa cây jojoba, dầu bơ và tinh dầu hoa anh thảo đêm) được lựa chọn dựa trên tính hiệu quả đã được chứng minh của chúng, đặc biệt là đối với bệnh viêm da cơ địa.

Bé trai 5uổi trước và sau 8 tuần điều trị bằng sản phẩm Dr Michaels Dermatinex

Quá trình điều trị được đánh giá dựa trên lâm sàng và các hình ảnh chụp lại vào tuần thứ 0, 1, 2, 4, 6, 8, 10, 12 và 14. Hai mươi tám bệnh nhân đã cho kết quả cải thiện đáng kể với tình trạng phát ban và ngứa ngay trong tuần điều trị đầu tiên và khỏi hoàn toàn vào tuần thứ 10-12. Chỉ có hai bệnh nhân, lần lượt là anh trai và em gái, có đáp ứng với điều trị chậm hơn và được ghi nhận là bị ngứa tăng lên.

Sau 14 tuần điều trị với sản phẩm Dr Michaels® Dermatinex, các bệnh nhân đã hồi phục hoàn toàn khỏi tình trạng viêm da cơ địa. Tất cả các bệnh nhân đều cho kết quả cải thiện rõ rệt chỉ trong vòng 3 ngày điều trị với hầu hết các tổn thương và triệu chứng biến mất trong 10 – 12 tuần điều trị các sản phẩm Dr Michaels® Dermatinex. Báo cáo lâm sàng này đã nêu bật lên rằng các sản phẩm của Dr Michaels® Dermatinex là lựa chọn an toàn và có hiệu qủa để điều trị bệnh viêm da cơ địa cho trẻ em.

(Theo Journal of Biological Regulators & Homeostatic Agents)

Hệ thống phòng khám chuyên khoa Dr. Michaels Psoriasis & Skin Clinic tại 81-83 Lò đúc, Hà nội và 87 Trần Não, TP. Hồ Chí Minh và áp dụng phương pháp Dr Michaels: sử dụng các loại thảo dược để điều trị bệnh vảy nến, viêm da cơ địa, bệnh bạch biến và nhiều bệnh da liễu khác. Cơ sở được áp dụng theo tiêu chuẩn, phác đồ tương tự các phòng khám chuyên khoa Dr. Michaels tại Australia, châu u với nguồn thảo dược được sản xuất, nhập khẩu từ Australia.

Phương pháp Dr. Michaels do Giáo sư, Tiến sĩ, Bác sĩ Michael Tirant phát triển hơn 30 năm qua và được thừa nhận rộng rãi để điều trị vảy nến, viêm da cơ địa và nhiều bệnh da liễu khác. Nhiều thử nghiệm lâm sàng cũng như các nghiên cứu đánh giá y học đã được công bố quốc tế tại những nước châu u, chứng minh giải pháp Dr. Michaels từ thảo dược đạt hiệu quả cao, an toàn và không có tác dụng phụ. Phương pháp này cũng được đánh giá là an toàn cho trẻ em và phụ nữ có thai.

Cách xử lý bệnh do nắng nóng

Khi nhiệt độ môi trường tăng quá cao sẽ ức chế các quá trình chuyển hóa của cơ thể, làm tổn thương mô tế bào gây nên các triệu chứng bệnh lý cho cơ thể.

Khi gặp bệnh nhân bị bệnh lý do nắng nóng, cần đưa vào chỗ thoáng mát rồi nhanh chóng đưa bệnh nhân đến cơ sở y tế gần nhất để tiếp tục theo dõi điều trị.

Vì sao cơ thể tổn thương khi nắng nóng?

Việc mất khả năng điều hòa thân nhiệt, tăng đáp ứng pha cấp và thay đổi trong việc giải phóng các protein sốc nhiệt là các tác nhân ảnh hưởng tới cơ thể, làm mất hoặc giảm các cơ chế tự điều hòa, làm tăng quá trình tiến triển từ stress do nắng nóng đến đột quỵ do nắng nóng. Khi nhiệt độ môi trường tăng cao, cung lượng tim có thể lên tới 20l/phút nhằm đưa máu từ trung tâm đến dưới da để thải nhiệt. Việc mất nước mất muối làm giảm cung lượng tim gây mất điều hòa thân nhiệt. Khi lượng máu tới da và cơ tăng do nóng hoặc do vận động gắng sức, lượng máu nuôi tạng sẽ giảm. Hậu quả là gây tăng tính thấm ở ruột, tăng giải phóng các cytokines của quá trình viêm, tăng phóng thích các nội độc tố ở ruột vào máu. Việc tăng các protein sốc nhiệt giúp bảo vệ tế bào khỏi tổn thương do nhiệt độ cao, tình trạng thiếu ôxy, thiếu máu, nội độc tố và các cytokine gây viêm. Ở những cá thể có nồng độ protein sốc nhiệt thấp thì khả năng tổn thương do nắng nóng tăng lên rất nhiều.

Các mức độ bệnh lý do nắng nóng

Có nhiều mức độ bệnh lý do nắng nóng gây nên như:

Say nắng nóng: Đây là tình trạng mất nước toàn thể kèm theo rối loạn điều hòa thân nhiệt, rối loạn vận mạch mà bản chất là do trung tâm điều hòa thân nhiệt không thích ứng với điều kiện thời tiết xung quanh. Ánh nắng mặt trời và sức nóng là hai tác nhân vật lý có thể gây stress với cơ thể. Khi nhiệt độ ngoài trời quá cao, cùng với việc phải phơi mình quá lâu dưới ánh nắng mặt trời hoặc phải làm việc trong điều kiện môi trường nhiệt độ cao nóng bức (hầm lò, trong phòng kín...) hoặc hoạt động thể lực quá sức ở người trẻ (chơi các môn thể thao cường độ cao, làm việc nặng nhọc kéo dài)... sẽ dẫn đến hiện tượng lượng nhiệt sinh ra và lượng nhiệt hấp thu lớn hơn nhiều so với lượng nhiệt cơ thể tỏa ra môi trường xung quanh. Do đó, trong say nắng nóng, tình trạng mất nước toàn thể là chủ yếu.

Khi nhiệt độ môi trường tăng quá cao sẽ ức chế các quá trình chuyển hóa của cơ thể, làm tổn thương mô tế bào gây các triệu chứng bệnh lý cho cơ thể.

Ngất xỉu, phù, chuột rút, cơn tetany do nắng nóng.

Stress do nắng nóng: Cảm giác mệt mỏi, ăn uống kém, nặng nề không thoải mái do phải làm việc ở môi trường nắng nóng quá lâu.

Kiệt sức do nắng nóng: Các mức độ từ nặng đến nhẹ với biểu hiện khát nước nhiều, mệt mỏi, đau đầu chóng mặt, buồn nôn, nôn, choáng ngất. Thân nhiệt trung tâm có thể bình thường hoặc tăng nhẹ nhưng không bao giờ vượt quá 40oC. Kiệt sức do nắng nóng chủ yếu do mất nước mất muối nhiều.

Đột quỵ do nắng nóng: Trên lâm sàng là một tình trạng thân nhiệt trung tâm cao trên 40oC kèm theo da nóng, khô với các rối loạn về thần kinh trung ương như run cơ, co giật và thậm chí hôn mê. Biến chứng nặng nề nhất là hội chứng suy đa tạng với các tổn thương về thần kinh, tiêu cơ vân, suy thận cấp, hội chứng suy hô hấp cấp tiến triển, tổn thương cơ tim, tổn thương gan và tụy, thiếu máu hoặc nhồi máu mạc treo, rối loạn đông máu, giảm tiểu cầu.

Trước một bệnh nhân bị bệnh lý do nắng nóng, việc đầu tiên là hạ thân nhiệt bằng cách chườm mát.

Xử trí thế nào?

Trước một bệnh nhân bị các bệnh lý do nắng nóng, việc đầu tiên là phải tìm cách hạ thân nhiệt xuống dần từng bước và càng sớm càng tốt bằng các biện pháp như đưa bệnh nhân vào chỗ mát, cởi hết quần áo; chườm lạnh bằng nước đá khắp người hoặc phun nước lạnh hay nhúng cả người bệnh nhân vào bể nước mát. Khi nhiệt độ xuống 380C, đưa bệnh nhân vào chỗ thoáng mát. Sau đó có thể cho bệnh nhân uống aspirin hoặc aminazin rồi nhanh chóng đưa bệnh nhân đến cơ sở y tế gần nhất để tiếp tục theo dõi điều trị.

Tại cơ sở y tế, với những trường hợp nặng, bệnh nhân sẽ được hồi sức hô hấp, tuần hoàn, điều chỉnh thăng bằng điện giải, kiềm toan, truyền dịch khoảng 5 lít (đường 5%; Nacl 0,9%), chống suy thận cấp do tiêu cơ vân. Khi cần phải tiến hành lọc máu cho bệnh nhân và điều chỉnh rối loạn các tạng khác: suy gan, rối loạn đông máu, chăm sóc, nuôi dưỡng đầy đủ... cho tới khi bệnh nhân phục hồi.

TS.BS. vũ Đức Định

Giúp người cao tuổi khắc phục chứng mất ngủ

Thế nhưng 1 tháng trở lại đây bố tôi thường xuyên bị mất ngủ, khiến cơ thể mệt mỏi. Xin bác sĩ cho biết nguyên nhân bị mất ngủ và cách nào khắc phục.

Trần Thúy Ngân(Hải Dương)

Ai cũng có thể bị mất ngủ nhưng người cao tuổi dễ bị mất ngủ với nhiều nguyên nhân như tuổi tác, sức khỏe, bệnh mạn tính và thậm chí là thói quen sinh hoạt hằng ngày. Bố bạn lại mắc bệnh về tim mạch nên ông bị mất ngủ do khi nằm gây khó thở, khó thở kịch phát trong cơn tăng huyết áp, loạn nhịp tim làm thức dậy đột ngột giữa lúc đang ngủ. Mất ngủ còn do nhiều nguyên nhân như bị viêm phế quản tắc nghẽn, hen suyễn, tinh thần không ổn định... Để ngủ được ngon giấc, người cao tuổi nên tránh những kích thích bên ngoài như rượu bia, thuốc lá, cà phê, trà, xem các phim hành động... trước khi đi ngủ. Thực hiện các bài tập thể dục nhẹ nhàng, đi bộ, xoa bóp, mát xa... rất tốt cho tuổi già và giấc ngủ. Phòng ngủ cho người cao tuổi phải ở nơi yên tĩnh, thoáng mát về mùa hè và ấm áp vào mùa đông. Một lưu ý nữa là hãy lên giường chỉ khi thấy buồn ngủ. Nếu bố bạn mất ngủ thường xuyên, liên tục gây ảnh hưởng tới sức khỏe của cụ thì bạn nên đưa bố đi khám và tư vấn bác sĩ chuyên khoa, đừng tự ý dùng thuốc ngủ tùy tiện, không theo chỉ dẫn của bác sĩ, gây ảnh hưởng tới sức khỏe và tinh thần.

ThS. Hà Hùng

Nguyên nhân khiến trẻ bị sụp mi

Trần Thái An (Hải Phòng)

Bình thường mi trên che qua vùng rìa giác mạc (ranh giới giữa lòng trắng và lòng đen) phía trên khoảng 2mm. Nếu vượt quá giới hạn đó, người ta gọi là sụp mi. Bệnh sụp mi có nhiều nguyên nhân, nó có thể không gây mù mắt, nhưng làm giảm chức năng thị giác (đặc biệt là ở trẻ em) và làm mất thẩm mỹ của người bệnh.

Sụp mi bẩm sinh chiếm khoảng 50-70% các trường hợp sụp mi, gồm sụp mi bẩm sinh đơn thuần, sụp mi bẩm sinh phối hợp (ví dụ phối hợp với liệt cơ nâng mi trên bẩm sinh, liệt dây thần kinh 3 bẩm sinh, hội chứng Marcuss-Gunn: nháy mi trong khi bệnh nhân nhai, sụp mi bẩm sinh phối hợp với dị dạng ở mặt: mi trên ngắn, hai mắt xa nhau,…). Sụp mi mắc phải có thể gặp do liệt dây thần kinh III do hội chứng khe dơi (liệt dây thần kinh III, IV, V, VI do hội chứng đỉnh hố mắt, do hội chứng xoang hang, sụp mi do bệnh nhược cơ, sụp mi do cân cơ, sụp mi sau chấn thương, sụp mi do u mi, sụp mi sau bỏng,…).

Ngoài ra, cần phân biệt với giả sụp mi, có thể gặp do nhãn cầu nhỏ, do viêm giác mạc... Sụp mi cũng có thể là biểu hiện của các bệnh nặng khác như bệnh nhược cơ, liệt dây thần kinh sọ não số III (do u não…), nếu không được phát hiện, điều trị kịp thời có thể ảnh hưởng đến tính mạng của người bệnh.

Trước hết, bạn phải đưa con đến phòng khám chuyên khoa mắt để được tư vấn và điều trị sụp mi theo nguyên nhân gây bệnh.

Điều đặc biệt quan trọng là ở trẻ em, nếu sụp mi độ 3, độ 4 (bờ mi trên đã che qua đồng tử của bệnh nhân cần phải điều trị sớm, đề phòng nhược thị, lác.

BS. Minh Châu

Viêm da cơ địa chữa thế nào?

Tôi đã đi khám bệnh viện da liễu bác sĩ bảo bị viêm da cơ địa cho đơn thuốc uống rồi nhưng không khỏi. Mong được các bác sĩ giúp đỡ.

pham tien duong (phamtienduonght90@gmail.com)

Bệnh viêm da cơ địa hay còn gọi là bệnh chàm thể tạng, eczema, sẩn ngứa, Liken đơn dạng mạn tính... Bệnh có thể biểu hiện cấp tính, bán cấp hoặc mạn tính. Một đặc điểm quan trọng của bệnh là hay tái phát. Triệu chứng điển hình của bệnh là các thương tổn da khô kèm theo ngứa. Do ngứa gãi nhiều mà da bị dày, bệnh nhân càng ngứa và gãi gây nên vòng bệnh lý “ngứa - gãi” làm cho bệnh nặng hơn và có nguy cơ bị bội nhiễm vi khuẩn. Bệnh có yếu tố di truyền, gia đình và hay xuất hiện ở những người có bệnh dị ứng khác như hen, viêm mũi dị ứng. Chẩn đoán bệnh không khó khăn, dựa trên các triệu chứng lâm sàng, nồng độ IgE trong máu thường tăng cao. Một số thức ăn cũng có thể làm vượng bệnh như trứng, sữa, lạc, đậu tương, cá, bột mỳ… Mùa hay bị bệnh thường vào mùa thu đông, nhẹ vào mùa hè. Điều trị bằng các thuốc bôi, thuốc uống chống ngứa; Bôi kem dưỡng ẩm rất cần thiết vừa có tác dụng chống khô da vừa có tác dụng tránh ngứa, hạn chế tái phát. Kem dưỡng ẩm phải được sử dụng hàng ngày và dùng lâu dài sau khi triệu chứng đã được cải thiện; Điều trị viêm da cơ địa cần có sự hợp tác chặt chẽ giữa thầy thuốc và người bệnh. Tùy theo giai đoạn bệnh là cấp tính, bán cấp hay mạn tính mà cho thuốc bôi phù hợp kết hợp thuốc kháng histamin chống ngứa. Điều quan trọng là bệnh nhân không nên gãi nhiều vì càng gãi càng ngứa và dễ bội nhiễm. Hơn nữa, cần chú ý những nguyên nhân khởi phát bệnh kể cả một số thức ăn như đã nói trên. Tuy nhiên, sẩn ngứa diện rộng trên cơ thể cần phân biệt ngứa da do sắc tố mật (thường kèm theo vàng da vàng niêm mạc mắt); hoặc ngứa do ghẻ.

BS. Vũ Lan Anh